#cafekinhdoanh

Jack Ma từng nói: "Khi bán hàng cho bạn bè thân thiết và gia đình, dù bạn bán cho họ bao nhiêu, họ vẫn luôn cảm thấy bạn đang kiếm tiền từ họ. Dù bạn bán rẻ đến mức nào, họ vẫn không trân trọng điều đó." Sẽ luôn có những người không quan tâm đến chi phí, thời gian, hay công sức của bạn. Họ thà để người khác lừa mình, cho người khác kiếm tiền, còn hơn là ủng hộ người mà họ quen biết. Bởi trong lòng họ luôn nghĩ: "Anh ấy kiếm được bao nhiêu từ mình?" thay vì "Anh ấy đã tiết kiệm/giúp mình bao nhiêu?" Đây chính là ví dụ điển hình của tư duy nghèo khó! Jack Ma về bán hàng: "Khi làm nghề bán hàng, những người đầu tiên tin tưởng bạn sẽ là người lạ. Bạn bè sẽ đề phòng bạn, những người bạn tạm bợ sẽ giữ khoảng cách. Gia đình sẽ coi thường bạn." Đến ngày bạn thực sự thành công, trả tiền cho mọi buổi tụ họp ăn uống, giải trí, bạn sẽ nhận ra: Tất cả đều có mặt, trừ những người lạ.
Showing posts with label chu ky kinh te. Show all posts
Showing posts with label chu ky kinh te. Show all posts

Dự báo mới về giá vàng



Vàng tăng khi FED bắt đầu nâng lãi suất và chiến tranh bùng nổ, vàng là nơi Phòng Trú tránh lạm phát !

Vậy FED vào chu kỳ giảm lãi suất, chiến tranh được 1 thời gian sắp tạm dừng chiến thì sao KOL lớn lại ra mặt nói tăng làm gì ? 

======================================

 https://cafef.vn/du-bao-moi-ve-gia-vang-188240927063712781.chn

Ngân hàng UOB vẫn lạc quan về giá vàng và nâng dự báo lên 2.700 USD/oz cho quý IV năm nay, 2.800 USD/oz cho quý I/2025, 2.900 USD/oz cho quý II/2025 và 3.000 USD/oz cho quý III/2025.


Ngày 26/9, Ngân hàng UOB (Singapore) công bố báo cáo về triển vọng giá vàng thế giới. Theo UOB, vàng đã tăng mạnh trong năm 2024, từ mức chỉ hơn 2.000 USD/oz vào đầu tháng 1 lên mức hiện tại là trên 2.600 USD/oz vào cuối tháng 9.

UOB nhận định, chu kỳ cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) làm cho đồng USD suy yếu và lãi suất thấp hơn hiện đang tạo ra động lực tích cực cho giá vàng.

“Chúng tôi dự báo Fed sẽ cắt giảm thêm 2 lần nữa ở mức 25 điểm cơ bản trong thời gian còn lại của năm 2024. Chu kỳ cắt giảm lãi suất của Fed cùng với sự suy yếu dự kiến của cả đồng USD và lãi suất vay sẽ tạo ra động lực quan trọng cho giá vàng”, chuyên gia của UOB nói.

Trong bối cảnh đó, nhu cầu chung của các ngân hàng trung ương đối với việc phân bổ dự trữ vào vàng vẫn không hề suy giảm. Khảo sát gần đây của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho thấy, các ngân hàng trung ương tiếp tục coi vàng là một nguồn lưu trữ giá trị quan trọng cho dự trữ của họ và đã chỉ ra ý định tiếp tục tăng phân bổ dài hạn của họ vào vàng.

Bất chấp các giao dịch mua quy mô lớn trong thập kỷ qua, dự trữ vàng của Trung Quốc hiện được ước tính chiếm hơn 5% trên bảng cân đối của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC).

Dự báo mới về giá vàng- Ảnh 1.

Ngân hàng UOB vẫn lạc quan về vàng và nâng dự báo lên 2.700 USD/oz cho quý IV năm nay.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Mỹ hiện nắm giữ khoảng 261 triệu ounce vàng dự trữ, tương đương 10% quy mô bảng cân đối hiện tại của Fed là 7.100 tỷ USD.

Tương tự, Ấn Độ đã hạ thuế nhập khẩu vàng từ 15% trước đó xuống còn 6% vào tháng 7. Trong tháng 8, Ấn Độ có mức tăng đột biến 30% doanh số bán đồ trang sức bằng vàng.

“Điều này được kết hợp với mức tăng đột biến trong nhập khẩu đồ trang sức bằng vàng của Ấn Độ lên mức cao kỷ lục mới, khi tổng giá trị nhập khẩu vàng tăng gấp ba lần từ 3,13 tỷ USD trong tháng 7 lên 10,06 tỷ USD trong tháng 8”, báo cáo UOB nêu.

Trong báo cáo triển vọng toàn cầu quý IV, UOB nâng dự báo tích cực về vàng lên 3.000 USD/oz vào quý III/2025. UOB đã có cái nhìn tích cực về vàng kể từ tháng 3/2022 khi giá vàng bắt đầu kiểm tra ngưỡng kháng cự 2.000 USD/oz. Kể từ đó, UOB liên tục nâng dự báo về vàng khi các động lực tích cực tăng lên.

Ngân hàng UOB vẫn lạc quan về vàng và nâng dự báo lên 2.700 USD/oz cho quý IV tới, 2.800 USD/oz cho quý I/2025, 2.900 USD/oz cho quý II/2025 và 3.000 USD/oz cho quý III/2025.

Tuy nhiên, rủi ro chính đối với dự báo của UOB là khả năng lạm phát bất ngờ tăng tốc trở lại, buộc Fed phải thu hẹp quy mô cắt giảm lãi suất dự kiến. Do đó có thể dẫn đến sự gia tăng trở lại của đồng USD và lãi suất sẽ gây bất lợi cho vàng.


Giải mã bí mật đằng sau sự đặc biệt và huyền bí của các nhà băng


 

(ĐTTCO) - Khủng hoảng ngân hàng mỗi quốc gia có thể khác nhau, nhưng có mẫu số chung là các nhà băng dùng mức độ đòn bẩy sử dụng nợ rất cao và mức độ mù mờ của nó. 

ĐTTC đã có nhiều thông tin và phân tích về các vụ phá sản ngân hàng Mỹ và những bài học cho Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về bản chất của hệ thống ngân hàng toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, ĐTTC đã có cuộc trò chuyện với GS. TS TRẦN NGỌC THƠ, Đại học Kinh tế TPHCM.

PHÓNG VIÊN: - GS có thể nói một góc nhìn dễ hiểu nhất về khủng hoảng ngân hàng hiện nay là từ đâu?

GS. TRẦN NGỌC THƠ: - Thực ra khủng hoảng ngân hàng với điều kiện mỗi quốc gia có thể khác nhau, nhưng có mẫu số chung giống nhau là các nhà băng dùng mức độ đòn bẩy sử dụng nợ rất cao và mức độ mù mờ của nó. Cứ sau mỗi cuộc khủng hoảng, người ta đi tìm một giải pháp “vĩnh cửu” để nó không lặp lại. Thế nhưng không có giải pháp nào giải quyết tận gốc 2 vấn đề “đòn bẩy và sự mù mờ” của các nhà băng.

Có thể nhìn các ngân hàng Mỹ và các ngân hàng thuộc diện kiểm soát đặc biệt hay yếu kém của Việt Nam. Suy cho cùng các vấn đề dẫn đến thất bại ngân hàng cả Mỹ lẫn Việt Nam là 2 vấn đề: không đủ vốn và quá mù mờ.

- Vậy theo GS các cơ quan quản lý và các nhà phản biện chính sách có nhìn thấy vấn đề này không?

- Đứng ở góc nhìn là người Việt Nam và quan sát hoạt động ngân hàng nước nhà, tôi có thể diễn giải từ quyển sách của GS. Anat Admati, Đại học Stanford và Martin Hellwig, Viện Kinh tế Đức, về những cách hiểu chưa chính xác trong lĩnh vực ngân hàng, là lý do dẫn đến thất bại của các nhà băng. Quyển sách ẩn dụ hệ thống ngân hàng giống như câu chuyện cổ tích của Andersen về “Bộ quần áo tàng hình của Hoàng đế”.

Khủng hoảng ngân hàng mỗi quốc gia có thể khác nhau, nhưng có mẫu số chung giống nhau là các nhà băng dùng mức độ đòn bẩy sử dụng nợ rất cao và mức độ mù mờ của nó. Các vấn đề dẫn đến thất bại ngân hàng cả Mỹ lẫn Việt Nam là 2 vấn đề: không đủ vốn và quá mù mờ.

Chuyện kể, có 2 thợ may thuyết phục Hoàng đế, rằng họ có khả năng dệt nên những bộ quần áo đẹp rất đặc biệt, với tuyên bố bộ quần áo tinh xảo đến mức sẽ vô hình đối với những người thiếu hiểu biết cho dù có đứng gần.

Hoàng đế đặt mua bộ quần áo đặc biệt nhưng cử các quan giám sát các thợ may, và họ không nhìn thấy gì đặc biệt, nhưng vì sợ bị coi là thiếu hiểu biết hoặc bất tài, nên ca ngợi sự lộng lẫy của quần áo vô hình và các loại vải không tồn tại đã được tạo ra. Và khi Hoàng đế “mặc" vào đi thăm viếng kinh thành, đám đông cũng ngưỡng mộ trang phục, mặc dù không ai nhìn thấy gì. Chỉ khi một đứa trẻ hét lên “Hoàng đế không có quần áo!”, thì mọi người mới nhận ra.

Câu chuyện ẩn dụ trên cho chúng ta thấy, tuy thường xuyên tiếp xúc hàng ngày với ngân hàng nhưng lại không hiểu hoặc thiếu những công cụ pháp lý để hiểu rõ ngân hàng đang gặp phải những rủi ro gì, cho đến một ngày “bộ quần áo đặc biệt” không tàng hình như chúng ta nghĩ.

GS Trần Ngọc Thơ giải mã bí mật đằng sau sự đặc biệt và huyền bí của các nhà băng

Thế nhưng, lý do chính cho sự thành công và cả thất bại ngân hàng là con người đang quá ngụy biện về nó. Cho rằng các ngân hàng rất đặc biệt và khác biệt với tất cả các công ty và ngành công nghiệp khác trong nền kinh tế. Bất cứ ai thắc mắc hoạt động của các nhà băng đều có nguy cơ bị tuyên bố là không đủ năng lực để tham gia vào cuộc thảo luận.

Và cũng lợi dụng sự đặc biệt này, các chủ nhà băng mặc dù chỉ bỏ ra một số vốn cực thấp, nhưng đã tích lũy khối tài sản khổng lồ cùng với nhiều đặc quyền đặc lợi không khác gì các vị vua để đủ sức chi phối bất kỳ ai. Nói thẳng ra nhóm lợi ích ngân hàng và các vấn đề kinh tế-chính trị của nó quá khủng khiếp để không ai dám thách thức.

- Thưa GS, chúng ta hãy quay lại 2 vấn đề lớn nhất dẫn đến thất bại của các nhà băng: thiếu vốn và rất mù mờ mà GS đã đề cập?

- Để hiểu rõ hơn vấn đề này, trước hết chúng ta cần làm rõ thế nào là khái niệm “vốn ngân hàng”. Đây cũng là cách tiếp cận của GS. Anat Admati và Martin Hellwig khi bàn về việc vì sao nhà băng luôn gặp khủng hoảng. Thực ra chúng ta tưởng khái niệm vốn là đơn giản. Nhưng đối với ngân hàng khái niệm vốn hơi đặc biệt và đây là điều gây nhầm lẫn nhiều nhất, cũng như tạo thêm nhiều sự huyền bí trong ngành ngân hàng.

Lấy thí dụ, tôi muốn mua một ngôi nhà trị giá 300 tỷ đồng. Do không có đủ tiền trả ngay một lúc, chỉ có thể trả trước 10% giá trị căn nhà là 30 tỷ đồng, nên buộc phải đi vay ngân hàng 270 tỷ đồng còn lại bằng cách thế chấp căn nhà.

Có thể hình dung việc tôi mua nhà thông qua sơ đồ cân đối kế toán đơn giản: Bên tay trái đại diện cho tài sản của tôi có giá 300 tỷ đồng. Bên tay phải đại diện cho các nguồn tài chính căn nhà bao gồm khoản thế chấp 270 tỷ đồng và khoản thanh toán trước 30 tỷ đồng. Sự khác biệt giữa giá trị của ngôi nhà và giá trị những gì tôi nợ gọi là vốn chủ sở hữu (CSH) của tôi trong ngôi nhà. Còn vốn ngân hàng hay còn có tên gọi chính xác là vốn chủ nhà băng.

GS Trần Ngọc Thơ giải mã bí mật đằng sau sự đặc biệt và huyền bí của các nhà băng ảnh 2

Từ đây bắt đầu phát sinh: giả dụ tôi là chủ ngân hàng, 30 tỷ đồng tiền thanh toán trước của tôi bây giờ gọi là vốn ngân hàng, tức vốn CSH của tôi là 30 tỷ đồng, và 270 tỷ đồng nợ ngân hàng lấy từ tiền gửi của dân.

Và điều gì sẽ xảy ra nếu ngôi nhà giảm giá trị sau đó? Giả sử giá trị giảm 5% xuống còn 285 tỷ đồng. Sau khi trừ 270 tỷ đồng, ngân hàng chỉ còn lại 15 tỷ đồng vốn CSH. Như vậy chỉ cần giá nhà giảm 5% đã quét sạch vốn CSH 50%. Nếu giá nhà giảm 10% sẽ ăn hết 100% vốn CSH, và nếu giá nhà giảm trên 10% ngân hàng sẽ bị âm vốn CSH. Thuật ngữ chuyên môn gọi là mất khả năng thanh toán, ở Việt Nam có khái niệm ngân hàng 0 đồng. Thực ra nếu gọi chính xác phải là ngân hàng âm đồng.

Theo quy tắc kế toán hiện hành, nếu chỉ nhìn vào số liệu kế toán chúng ta sẽ không thấy được ngân hàng đang bị sụt giảm mạnh vốn CSH hoặc thậm chí đang âm vốn. Đó cũng là trường hợp của ngân hàng SVB bên Mỹ phá sản.

Đây chỉ là một thí dụ nhỏ cho thấy vay mượn đã phóng đại rủi ro như thế nào. Chỉ cần 1 sự sụt giảm nhỏ trong giá trị tài sản khoảng 10% cũng có thể ăn hết vốn CSH.

Nhưng cũng chỉ cần giá nhà tăng nhẹ cũng có thể lời gấp hàng chục lần. Đó là sự thú vị đam mê, nhưng cũng đầy nguy hiểm của nghề làm ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Nhưng rất tiếc, so với khu vực doanh nghiệp sản xuất, nó cũng lại ít bị điều tiết nhiều nhất.

- Vậy theo GS, thực trạng vốn CSH hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện như thế nào?

- Thí dụ trên cho thấy, vốn ngân hàng là một khái niệm động và phụ thuộc hoàn toàn vào rủi ro mà ta chưa biết trước. Ngay lúc tôi vay mượn vốn ngân hàng của tôi là 30 tỷ đồng. Nhưng sau đó đủ thứ rủi ro chưa biết xuất hiện làm giá nhà sụt giảm, ngay lập tức vốn CSH cũng giảm theo. Trong thực tế, điều này không tạo ra vấn đề lớn nếu ngân hàng không bán căn nhà ngay lập tức và người gửi tiền vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng.

GS Trần Ngọc Thơ giải mã bí mật đằng sau sự đặc biệt và huyền bí của các nhà băng ảnh 3

Và thực ra đây chỉ là những khoản lỗ trên giấy. Bởi các quy tắc kế toán hiện hành không phản ảnh khoản lỗ này nếu nó được nắm giữ đến ngày đáo hạn. Vì vậy nếu chỉ nhìn vào số liệu kế toán, chúng ta sẽ không thấy được ngân hàng đang bị sụt giảm mạnh vốn CSH hoặc thậm chí đang âm vốn.

Đó cũng là trường hợp của ngân hàng SVB bên Mỹ phá sản với khoản lỗ chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn 15,1 tỷ USD, gần bằng với 16 tỷ USD vốn CSH trước khi phá sản. Như vậy trước khi phá sản vào tháng 3 năm nay, SVB gần như là ngân hàng 0 đồng, nhưng vẫn báo cáo lợi nhuận khá tốt. “Hoàng đế” hầu như khỏa thân nhưng tại sao không ai thấy? Đến đây câu hỏi nhức nhối được đặt ra “các cơ quan quản lý đang ở đâu”?

Trở lại câu hỏi liệu vốn CSH hệ thống ngân hàng của chúng ta đang ở mức nào, thực hư ra sao, ắt chỉ có cơ quan quản lý là NHNN nắm rõ nhất. Hy vọng như thế! Nhưng những sự kiện chấn động trên thị trường bất động sản (BĐS) thời gian qua cho thấy, đối với các ngân hàng thân thiện với BĐS, chỉ cần một sự sụt giảm nhỏ trong giá tài sản, rủi ro sẽ rất lớn.

Tôi đang lo lắng những chính sách mở đường cho các nhà băng tăng mua vào trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), nếu không kiểm soát tốt sẽ tạo ra những hệ lụy.

- Nói như vậy thị trường BĐS nước ta thời gian qua sụt giảm khá sâu, những nhà băng nào cho vay BĐS nhiều sẽ càng chấp nhận rủi ro?

- Trong thí dụ vay thế chấp căn nhà vừa nói trên, nếu giá tài sản giảm nhiều hơn 10%, có khả năng tôi sẽ không còn động lực trả nợ cho ngân hàng nữa. Nếu giá nhà giảm thêm 5%, tôi chỉ có thể trả nợ cho ngân hàng nếu tôi tìm ra một cơ hội sinh lợi 50% trên vốn CSH. Đây là điều không tưởng.

Vậy tôi phải làm gì? Làm đúng quy định điều này là không thể. Vậy là ngân hàng phải chơi trò chơi rủi ro, thậm chí làm sai luật pháp, tức đầu tư vào các dự án rủi ro thay vì cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay. Thế thì chỉ còn cách đặt cược vào BĐS để mong sự hồi sinh. Và bằng một cách nào đó, liệu các nhà băng lại mua tiếp TPDN của chính các DN BĐS?

- Vậy giải pháp trước mắt các nhà băng cần phải tăng vốn nhiều hơn?

- Tạm thời tôi không bàn chuyện Chính phủ cứu hay không cứu ngân hàng, và luật pháp phải cải tiến như thế nào để tránh sân sau của các chủ nhà băng. Nhưng trước hết cần nhìn nhận 2 vấn đề.

Thứ nhất, pháp luật hiện nay quy định các chủ ngân hàng có trách nhiệm hữu hạn. Điều này khiến cho ngân hàng lao vào mô hình kinh doanh chấp nhận rủi ro quá mức. Nếu thất bại chắc chắn sẽ lây lan sang toàn hệ thống và để lại hệ lụy khủng khiếp cho hệ thống tài chính và cả nền kinh tế.

Thứ hai, để hạn chế các ông chủ ngân hàng chấp nhận rủi ro quá mức, cần phải tăng vốn cao thêm nữa. Sau cuộc khủng hoảng hàng loạt ngân hàng Mỹ, hầu như chắc chắn các nhà lập pháp sẽ buộc các chủ ngân hàng phải tăng vốn nhiều hơn nữa, thậm chí gấp đôi so với các quy định hiện tại. Nhiều đề xuất quốc tế cho rằng, các ngân hàng cần phải đủ vốn với tỷ lệ 30% vốn CSH cấp 1 trên tổng tài sản.

Với Việt Nam, ước tính sơ bộ của tôi cho thấy vốn CSH cấp 1 trên tổng tài sản các nhà băng Việt tầm khoảng vài phần trăm. Nó thật sự quá thấp. Ngoài ra, các quy định về các chỉ số thanh khoản nhà băng cũng cần được cải tiến và tăng cường mạnh hơn. Nếu chủ ngân hàng cảm thấy mình bị mất mát nhiều quá trong một cuộc chơi, họ sẽ hạn chế chấp nhận rủi ro quá mức.

- Thưa GS hầu hết nhà băng Việt đều tuân thủ Basel 2, một số tuyên bố tiệm cận Basel 3. Vậy điều này liệu có đủ ngăn các ngân hàng hạn chế chấp nhận rủi ro?

- Nhiều bình luận cho rằng, một trong những lý do dẫn tới khủng hoảng ngân hàng Mỹ hiện nay là do các quy định Basel quá phức tạp. Đến mức nó là câu chuyện riêng của các nhà toán học ở Ủy ban Basel chứ không phải của các chuyên gia. Các công thức quy định lượng vốn điều chỉnh rủi ro theo chuẩn Basel phức tạp đến mức “Hoàng đế” trong câu chuyện cổ tích của Andersen cũng không biết, hoặc không hiểu hết nhưng cứ giả vờ mình hiểu.

Còn các chuyên gia ngân hàng không dám nói gì vì sợ bị chê thiếu hiểu biết, bất tài, thiếu chuyên môn ngân hàng. Có những khái niệm toán học nghe rất siêu việt, nhưng thực ra trong thực tế ra sao vẫn không ai biết được. Chẳng hạn, quy định tính rủi ro thị trường cho các chứng khoán mà ngân hàng giao dịch, được tính ở mức kịch bản chịu đựng được rủi ro 1.000 năm mới xảy ra 1 lần.

Thế nhưng tại sao lại cứ hết khủng hoảng ngân hàng này đến khủng hoảng ngân hàng khác, theo chu kỳ 15 năm ở Mỹ lại xuất hiện một cuộc khủng hoảng lớn (gần nhất là 2008 và 2023).

Và cũng mới đây thôi, thất bại của SVB cũng chính là do họ giao dịch và nắm giữ quá nhiều TP chính phủ. Cuộc khủng hoảng này đã dạy cho ta bài học, thậm chí ngay cả TP chính phủ tuy là tài sản an toàn nhưng vẫn đầy rủi ro.

Trong khi đó, nhìn lại Việt Nam tôi thấy NHNN đang lấy ý kiến về đề xuất hạ hệ số rủi ro các khoản vay thế chấp nhà ở xã hội để tính hệ số đủ vốn CAR khoảng 12-50%, thay vì ở mức 25-100% như hiện tại. Hãy cẩn thận với đề xuất này.

- Xin cảm ơn GS về cuộc trò chuyện này.

Sự thành công và cả thất bại ngân hàng là con người đang quá ngụy biện về nó, cho rằng các ngân hàng rất đặc biệt và khác biệt với tất cả các công ty trong nền kinh tế. Lợi dụng sự đặc biệt này, các chủ nhà băng có nhiều đặc quyền đặc lợi, tạo ra nhóm lợi ích ngân hàng.

--------

Kỳ tới: Phải thay "trang phục" cho các nhà băng

https://dttc.sggp.org.vn/gs-tran-ngoc-tho-giai-ma-bi-mat-dang-sau-su-dac-biet-va-huyen-bi-cua-cac-nha-bang-post104797.html

https://dttc.sggp.org.vn/dang-sau-con-so-tang-truong-va-kinh-doanh-khong-bao-gio-lo-cua-cac-ngan-hang-post104582.html


Ngày bùng nổ theo đà (FTD) là gì? Cách áp dụng FTD trong đầu tư chứng khoán


 

Ngày bùng nổ theo đà (FTD) là gì? Cách áp dụng FTD trong đầu tư chứng khoán

Trong giao dịch đầu tư chứng khoán nhà đầu tư luôn có ý nghĩa là “muốn có lợi nhuận thì cần mua đáy bán đỉnh” và đó là điều bất cứ ai cũng mong muốn. Một khái niệm tưởng chừng như đơn giản nhưng làm sao để thực hiện điều đó trong thực tế? Và rất nhiều người đã nếm trải nỗi đau “bắt đáy thì đứt tay” sau khi mua, cổ phiếu lại tiếp tục giảm và khoản lỗ càng ngày càng lớn, sau khi chốt lời xong giá cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng. Vậy dấu hiệu nào cho thấy thị trường đạt đỉnh? Và dấu hiệu nào sẽ cho thấy thị trường đã có đáy? Đã đủ an toàn để giải ngân chưa?

Trong bài viết ngày hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về một khái niệm là ngày Bùng Nổ Theo Đà, đây là một trong những dấu hiệu cho thấy thị trường đã tạo đáy. Vậy Ngày Bùng nổ theo đà (FTD) là ngày gì? Và cách áp dụng FTD trong giao dịch đầu tư chứng khoán như thế nào? Hãy cùng tôi tìm hiểu trong bài viết bên dưới nhé.

Phân tích đầu tư theo phương pháp BOTTOM-UP hay TOP-DOWN?


 Phân tích đầu tư theo phương pháp BOTTOM-UP hay TOP-DOWN? Vĩ mô có quan trọng trong đầu tư hay người ta chỉ đang phóng đại nó quá mức?




Đầu tư LỰA CHỌN TỪ DƯỚI LÊN (Bottom-up investing) là phương pháp đầu tư tập trung vào việc phân tích từng cổ phiếu riêng lẻ và KHÔNG ĐẶT NẶNG tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô và chu kỳ thị trường. Nói cách khác, đầu tư LỰA CHỌN TỪ DƯỚI LÊN thường tập trung vào phân tích các yếu tố cơ bản của một công ty cụ thể, chẳng hạn như tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận, so với ngành hoặc so với nền kinh tế tổng thể. Phương pháp đầu tư LỰA CHỌN TỪ DƯỚI LÊN giả định rằng các công ty riêng lẻ có thể hoạt động tốt ngay cả trong bối cảnh một ngành hoạt động kém hiệu quả, ít nhất là trên cơ sở tương đối.

Đầu tư LỰA CHỌN TỪ DƯỚI LÊN buộc các nhà đầu tư phải xem xét các yếu tố kinh tế vi mô, như tình hình tài chính tổng thể của công ty, báo cáo tài chính, sản phẩm và dịch vụ của công ty, cung và cầu, tăng trưởng đơn hàng, điểm rơi lợi nhuận từ sản phẩm mới/nhà máy mới/dự án mới, giao dịch nội bộ…

Ví dụ: chiến lược tiếp thị bán hàng hoặc cơ cấu tổ chức độc đáo của một công ty có thể là chỉ số hàng đầu khiến nhà đầu tư theo phương pháp LỰA CHỌN TỪ DƯỚI LÊN ra quyết định đầu tư. Ngoài ra, những bất thường trong kế toán trên báo cáo tài chính của một công ty cụ thể có thể chỉ ra những vấn đề đối với một công ty trong một ngành công nghiệp đang bùng nổ, khiến nhà đầu tư LỰA CHỌN TỪ DƯỚI LÊN ra quyết định không đầu tư vào công ty này, mà đầu tư vào một công ty đối thủ.

Cách nhận diện ngày phân phối ẩn khi thị trường vẫn tăng điểm


 



Định thời điểm thị trường không phải là để dự đoán tương lai, việc này giúp nhận ra những tín hiệu đã được chứng minh là những chỉ báo đáng tin cậy về hướng đi của thị trường chứng khoán trong tương lai. Để thành công trong đầu tư, bạn cần nhận thức được những tín hiệu đó và giao dịch cho phù hợp.

Một trong những tín hiệu chính cho thấy thị trường đạt đỉnh là sự phân phối. Đó là khi S&P 500 hoặc Nasdaq giảm với khối lượng lớn hơn phiên trước. Phân phối là một dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư tổ chức đang bán nhiều hơn bình thường và sự tích tụ nhiều ngày phân phối thường đánh dấu dấu đỉnh thị trường.

Các nhà đầu tư cũng phải theo dõi một hình thức phân phối lén lút được gọi là ngày phân phối ẩn. Về cơ bản đó là ngày chỉ số thị trường có khối lượng lớn mà không có nhiều tiến triển về giá.

Tín hiệu này xảy ra khi một chỉ số leo lên cao nhưng cuối cùng từ bỏ phần lớn mức tăng có được trong ngày và đóng cửa ở nửa dưới của phạm vi giá ngày. Có thể nói, chỉ số bị “đứng hình”.

Có những điều kiện tiên quyết khác để xác định những ngày phân phối ẩn. Một là chỉ số phải đóng cửa tăng không quá 0,4%. Thứ hai, khối lượng phải cao hơn ngày hôm trước. Thứ ba, chỉ số này phải tăng ít nhất 0,2% ở một trong hai phiên trước đó. Điều này là để đảm bảo rằng chỉ số đang bị “đứng hình” so với tiến trình tăng giá trước đó.

Thứ tư, chỉ số phải đang ở mức đỉnh cao mới. Một số trường hợp ngày phân phối ẩn có thể khong cần ở mức đỉnh cao mới nhưng vẫn được tính. Xác định những ngày phân phối ẩn kiểu này rất phức tạp, vì vậy cách tốt nhất để theo dõi các ngày phân phối ẩn là theo dõi chúng trong phân tích hàng ngày của của chúng tôi về thị trường chứng khoán, tại mục Toàn cảnh thị trường.

Những ngày phân phối ẩn dễ bị bỏ qua vì hầu hết các nhà đầu tư chỉ cảm thấy vui mừng khi thấy chỉ số tăng điểm dù rất nhỏ. Nhưng nhà đầu tư hiểu biết nhận ra rằng đang có lực bán mạnh của các tổ chức. Nói cách khác, các tổ chức đang bán khi thị trường chứng khoán còn mạnh mẽ.

Điểm mấu chốt ở đây là những ngày phân phối ẩn là một kiểu phân phối tinh tế, ngay cả khi thị trường không giảm điểm.

#1 Nợ công mới là thứ kéo lạm phát


 [Nợ công mới là thứ kéo lạm phát]
Tham khảo thêm : 2023 https://vneconomy.vn/tran-no-cong-cua-my-thay-doi-the-nao-trong-hon-50-nam-qua.htm 



Có 1 mối liên hệ mật thiết giữa Nợ công chính phủ là Lạm Phát gần như bất biến, nợ công càng gia tăng thì lạm phát sẽ còn càng cao.

Đơn cử nhất hãy nhìn chính phủ Mĩ, 1 khi hết tiền, họ lại phải nâng trần nợ công, để vay thêm tiền, và tiền lại đc in ra, lạm phát lại cứ gia tăng.

Chính vì vậy cơ bản muốn giảm lạm phát, thi cần phải giảm nợ công, siết chi tiêu chính phủ 1 cách hợp lý.

Nhưng 1 điều bất hợp lý là dân là người tạo ra tài sản, nhưng chính phủ lại là người quyết định xài nó. 

Thể chế nào cũng vậy, chính vì điều này nên ko quốc gia nào tránh đc câu chuyện, xài tiền ko đúng mục đích và hiệu quả từ thuế người dân, khiến nợ công liên tục tăng cao.

Nay cuối tuần, kể anh em nghe 1 câu chuyện có thật từ Trump trước khi ông quyết định Phải làm tổng thống.

Năm 2016 khi Trump còn định tranh cử, lúc đó ông còn chưa là ứng viên của Đảng cộng hòa, năm đó con gái ông đã nói với ông rằng, vào năm 1980 chính quyền đã muốn xây 1 sân trượt băng tại trung tâm thành phố New York.

Từ 1980 chính quyền New York đã mất 6 năm rưỡi và 13tr đôla đầu tư công....nhưng vẫn ko xây xong sân trượt băng.

Lúc đó Trump nghĩ, làm thế nào mà chính phủ có thể làm đc 1 việc thần kì như vậy ?? Ông gọi điện cho chính quyền thành phố và nói rằng, 

" Tôi sẽ xây dựng sân băng, chỉ cần 3tr đô và 4 tháng, hãy giao việc đó cho tôi"

Năm đó chính quyền còn chế nhạo ông, thậm chí còn công khai ý kiến của ông cho mọi người, nhưng vô tình lại phản tác dụng, vì người dân đã chờ đợi quá sức chịu đựng, họ đã ủng hộ ông Trump, và cuối cùng chính quyền phải giao cho ông làm, để chứng minh với đám đông, ông chỉ là kẻ nói khoác.

Ông Trump là người ko có kinh nghiệm về thiết kế, xây dựng, nhưng bản lĩnh thương trường đã giúp ông nhận ra vấn đề cốt lõi cần xử lý.

Ông biết rằng chính quyền đã thuê 1 cty đến từ Florida, phía nam nước Mĩ, nơi luôn ấm áp, làm gì có mùa Đông, cty này chỉ là bình phong để nhận khoản tiền đầu tư công từ các chính trị gia.

Ông đã quyết định tìm 1 cty từ phía Bắc,  đó chính là Canada là lựa chọn tốt nhất

Ông đã tìm dc 1 cty tại Toronto, đã từng xây dựng sân trượt băng cho Olympic, kĩ thuật của họ hàng đầu TG.

Kết quả là chỉ mất 3tr đôla Mĩ và 3 tháng đã hoàn thành, chưa hết, trong 3tr đôla Mĩ đó, ông còn tiết kiệm dc 750 nghìn đô để cải thiện phòng nghĩ và nhà hàng kinh doanh, tạo lợi nhuận lớn cho chính quyền  

Ở đây chúng ta thấy rõ ràng khi đưa dòng tiền đầu tư công từ tiền Thuế của dân, vào tay tư nhân, thì kết quả sẽ rất khác là vào tay chính phủ, quốc gia nào cũng vậy

Vì sao, bởi vào tay tư nhân thì có chính phủ giám sát, còn vào cty con của ai đó thì sự giám sát đôi khi ko còn. Nhìn chung kết quả, nói lên năng lực, chả phải bàn cãi 

Chính lẽ đó nên nợ công các quốc gia vốn dĩ sẽ liên tục tăng, và chỉ có 2 cách giảm 

1. Giảm chi tiêu công, xài sao hợp lý

2. Gia tăng sản lượng hàng, để theo kịp tiền nợ dc in ra

Vĩ mô thú vị đúng ko, học vĩ mô phải bốc tách từ sự kiện cuộc sống

=======================================================

Mối liên hệ giữa giá dầu và giá vàng



Dầu và vàng là 2 loại hàng hóa quan trọng trên thị trường, giá dầu và giá vàng thay đổi có thể trực tiếp ảnh hưởng đến các loại hàng hóa khác.

Nắm được các yếu tố tác động đến giá dầu và giá vàng sẽ giúp bạn đưa ra những quyết định tài chính sáng suốt.

Vậy mối liên hệ giữa giá dầu và giá vàng thế nào? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.


Dầu và vàng là 2 loại hàng hóa có quan hệ mật thiết với nhau

3 yếu tố ảnh hưởng đến giá dầu trên thị trường


Dầu trở thành nguồn nguyên liệu chính của thế giới. Tuy nhiên, ngày nay giá dầu trên thế giới tăng giảm liên tục bởi nhiều yếu tố ảnh hưởng.

Quy luật Cung – Cầu trên thị trường

Quy luật cung – cầu trên thị trường có thể được hiểu là khi nguồn cung lớn thì nhu cầu mua hàng sẽ giảm. Ngược lại khi lượng cung khan hiếm thì nhu cầu trên thị trường sẽ tăng. Giá dầu cũng không nằm ngoài quy luật này. Sự tăng hay giảm của giá dầu sẽ phụ thuộc rất lớn vào quy luật cung cầu.

Tình hình chính trị căng thẳng giữa các nước

Tình hình chính trị căng thẳng khiến việc cung cấp dầu bị đình trệ đặc biệt với các nước có trữ lượng dầu mỏ lớn trên thế giới. Cuộc chiến giữa Nga và Ukraine cũng là nguyên nhân chính khiến giá dầu tăng chóng mặt. Bên cạnh đó, các vấn đề như thiên tai hay khủng bố cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá dầu trên thị trường.


Các tổ chức trên thế giới

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng giảm của giá dầu một phần cũng xuất phát từ các tổ chức lớn trên toàn cầu như Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED). Các chính sách và quy định chung từ các tổ chức sẽ quyết định trực tiếp đến giá cả của dầu mỏ trên thị trường.





Chuyện gì xảy ra khi ngân hàng phá sản?


 Trong thực tế, ngân hàng là một trong những cơ quan không thể thiếu trong nền kinh tế, đảm bảo cho sự vận hành của hệ thống tiền tệ. Tuy nhiên, ngân hàng giống như bất cứ doanh nghiệp nào khác đều có nguy cơ bị phá sản. Vậy hãy cùng DNSE tìm hiểu về hiện tượng phá sản của ngân hàng qua bài viết dưới đây.

Ngân hàng phá sản khi nào?

Một ngân hàng được coi là phá sản khi không thể hoàn thành nghĩa vụ với chủ nợ và người gửi tiền, hay còn gọi là mất khả năng thanh toán. 

Khi nào thì ngân hàng phá sản?
Khi nào thì ngân hàng phá sản?

Theo quy định từ Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Phá sản, một ngân hàng cần thực hiện mở thủ tục phá sản. Sau khi được Tòa án chấp thuận và triển khai thủ tục tuyên bố phá sản, khi toàn bộ tài sản của Ngân hàng được thanh lý, ngân hàng đó sẽ được coi là hoàn thiện quá trình phá sản.

Trên thực tế, tại Việt Nam chưa có ngân hàng nào thực hiện phá sản qua việc làm thủ tục. Khi một ngân hàng được coi là yếu kém, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện cơ cấu lại, tiến hành chuyển giao 0 đồng cho một ngân hàng khác.

Vai trò của thị trường chứng khoán đối với sự phát triển của nền kinh tế


 Thị trường chứng khoán là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế thị trường của các quốc gia. Mọi sự biến động trên thị trường đều sẽ phản ánh vào nền kinh tế từng quốc gia. Vậy, vai trò của thị trường chứng khoán là gì và ảnh hưởng như thế nào đối với sự phát triển của nền kinh tế? Hãy cùng DNSE theo dõi bài viết hôm nay để giải đáp câu hỏi trên nhé.

Vai trò của thị trường chứng khoán
Vai trò của thị trường chứng khoán

Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế

Mọi diễn biến trên thị trường chứng khoán (TTCK) đều sẽ tác động, phản ánh đến nền kinh tế và tâm lý của nhà đầu tư. Đây chính là kênh dẫn vốn quan trọng và cũng là kênh đầu tư đầy tiềm năng của người dân. 

Đối với Chính phủ, TTCK là công cụ huy động vốn, làm giàu ngân sách một cách bền vững thông qua: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ,… Chi phí giao giao dịch chứng khoán sẽ được Sở giao dịch Chứng Khoán thu về với mục đích tăng cường ngân sách Nhà nước. 

Ngoài ra, TTCK cũng là nơi huy động vốn vô cùng hiệu quả của các doanh nghiệp bằng việc bán cổ phần sở hữu công ty. Lượng tiền thu về sẽ được dùng làm vốn đầu tư cho việc kinh doanh, sản xuất,… 

Có một điều đặc biệt, đó là thị trường chứng khoán chính là một chiếc gương, phản chiếu lại đúng thực trạng của nền kinh tế. 

Ví dụ: Khủng hoảng tài chính năm 2008, thị trường chứng khoán đã phản ánh đúng thực trạng tín dụng dễ dãi năm 2007. Với sự ảnh hưởng trực tiếp từ việc sử dụng đòn bẩy quá lớn, thị trường con gấu xuất hiện và mang lại nỗi ám ảnh cho nhà đầu tư.

Khủng hoảng kinh tế là gì? Ví dụ về khủng hoảng kinh tế


 Khủng hoảng kinh tế hiện nay luôn là nỗi sợ của tất cả mọi người chú không chỉ riêng gì các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi nó xảy ra thì chúng ta cũng cần phải đối mặt và tìm cách giải quyết, giảm thiểu tối đa thiệt hại. Bài viết sau đây của DNSE sẽ nói về khủng hoảng kinh tế là gì và những vấn đề xung quanh chủ đề này?

Khủng hoảng kinh tế là gì

Khủng hoảng kinh tế là gì? Có nên đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng?

Khủng hoảng kinh tế là gì?

Khủng hoảng kinh tế tiếng anh là Economic Crisis là hiện tượng nền kinh tế của một quốc gia hoặc một khu vực, thậm chí toàn thế giới suy thoái đột ngột, trầm trọng và theo chiều hướng kéo dài.

Trong thời kỳ khủng hoảng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thường giảm, thanh khoản cạn kiệt, giá trị bất động sản và thị trường chứng khoán giảm sâu. Điều này gây ra tình trạng “bán tháo” trên thị trường.

Mặc dù khủng hoảng kinh tế có thể giới hạn ở phạm vị quốc gia hay một khu vực, song với xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, khủng hoảng rất dễ lan rộng ra phạm vi toàn cầu.

Những điều cần biết về mối liên hệ giữa giá dầu và giá vàng - giá dầu thô và thị trường chứng khoán


 Dầu và vàng là 2 loại hàng hóa quan trọng trên thị trường, giá dầu và giá vàng thay đổi có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các loại hàng hóa khác. Có thể nắm được các yếu tố tác động đến giá dầu và giá vàng sẽ giúp việc đầu tư của bạn trở nên dễ dàng hơn. Vậy mối liên hệ giữa giá dầu và giá vàng thế nào? Cùng tìm hiểu ngay sau đây.

Mối liên hệ giữa giá dầu và giá vàng

Những điều cần biết về mối tương quan giữa giá dầu và giá vàng

Các yếu tố ảnh hưởng đến giá dầu

Dầu là đầu vào quan trọng trong quá trình sản xuất. Không có dầu và các chế phẩm từ dầu, máy móc không thể vận hành, phương tiện giao thông không thể hoạt động và cuộc sống hiện đại sẽ bị đình trệ. Giống như các hàng hóa khác, giá dầu bị chi phối bởi quy luật cung – cầu trên thị trường. Ngoài ra, nó còn bị tác động bởi tỷ giá đồng dollar Mỹ.

Songs & Books

  • FoxPleiku Laura W.E 2.0 EUR5M default
  • https://cophieux.com/download-sach-chung-khoan-pdf/
  • https://drive.google.com/file/d/1fdxdNOfqKf6_fxYFCwnJMd1OY_Wal54X/view
  • https://drive.google.com/file/d/1S2KGIn8v2ltaeKg3aXKzoYBOHERikler/view
  • https://drive.google.com/file/d/1WK8HXfk5nR_V7T5JYNblDT-ZQJv5gU8f/view
  • https://www.youtube.com/watch?v=KMNyDlpX5Zg